Công Trình Kiến Trúc Của Niềm Tin


Hãy thử điều này. Bạn hãy chọn lấy ngẫu nhiên một người và đưa họ vào trong một căn phòng cùng với một cái nút bấm. Rồi sau đó hãy bảo với họ rằng nếu họ làm một điều gì đó – một việc mà tự họ phải nghĩ ra – sẽ có ánh đèn chớp lên báo rằng họ đã ghi được điểm. Và hãy bảo với họ rằng để xem họ được bao nhiêu điểm trong vòng ba mươi phút.
Khi các nhà tâm lý học tiến hành thí nghiệm này, chắc là bạn có thể hình dung được điều gì xảy ra. Mọi người ngồi xuống và bắt đầu ấn công tắc một cách ngẫu nhiên cho tới khi ánh đèn sáng lên báo rằng họ đã ghi điểm. Theo logic, họ sẽ cố lặp lại bất kỳ động tác nào họ đã thực hiện trước đó để ghi thêm điểm. Ngoại trừ việc giờ đây đèn không sáng nữa. Nên họ bắt đầu thử nghiệm với các bước hành động phức tạp hơn – bấm vào nút ba lần, rồi ấn thêm một lần, rồi đợi thêm năm giây – đing! Thêm một điểm nữa. Nhưng ngay cả cách đó cũng không còn hiệu quả. Có lẽ chuyện này cũng chẳng liên quan gì tới cái nút bấm cả, họ suy luận. Có lẽ nó phụ thuộc vào cách ngồi của mình. Hay thứ mà mình chạm vào. Có lẽ nó liên quan tới chân mình cũng nên. Đing! Thêm một điểm nữa. Zê, có thể là do vị trí của chân mình và rồi mình bấm nút lần nữa. Đing!
Nhìn chung, trong vòng từ mười tới mười lăm phút mỗi người sẽ suy luận ra một cách thức cụ thể để ghi thêm điểm. Đó thường là những phương pháp rất kỳ quặc như đứng trên một chân hay ghi nhớ một loạt các bước nút bấm dài lê thê trong một thời gian nhất định trong khi quay mặt về một hướng nào đó.
Nhưng phần thú vị ở đây là: điểm số được phân phối một cách ngẫu nhiên. Không có công thức nào cả. Đó chỉ là một cái bóng đèn chớp tắt với một tiếng đing, và mọi người cứ quay vòng vòng với cái suy nghĩ rằng việc mà họ làm sẽ giúp họ ghi được thêm điểm.
Bỏ qua tính tàn ác của cái trò này, mục đích của thí nghiệm là nhằm chỉ ra rằng trí óc con người nhanh nhạy ra sao trong việc tiến tới các ý tưởng và tin vào hàng đống những thứ vớ vẩn không thực tế. Và hóa ra là tất cả chúng ta đều có cái năng khiếu này. Mọi người rời khỏi căn phòng đó đều bị thuyết phục rằng họ đã hoàn thành xuất sắc thí nghiệm và giành chiến thắng trong trò chơi nho nhỏ. Họ đều tin rằng họ đã phát minh ra cách bấm nút “hoàn hảo” giúp cho họ ghi điểm. Nhưng phương pháp mà họ luận ra cũng độc đáo như chính con người họ vậy. Một người đàn ông đã phát minh ra một cách bấm nút siêu dài mà chẳng có ai ngoại trừ ông ta hiểu nổi. Một cô gái thì tin rằng cô phải chạm tới trần nhà một số lần nhất định mới có thể ghi điểm. Khi rời khỏi căn phòng cô ta kiệt sức vì cứ phải nhảy lên nhảy xuống suốt.
Trí não chúng ta là những cỗ máy thâm độc. Điều mà ta hiểu như là “thâm độc” được sinh ra bởi sự liên tưởng của não bộ sau hai hay ba sự trải nghiệm. Ta ấn vào nút bấm, rồi ta thấy đèn sáng lên; ta kết luận rằng cái nút bấm khiến cho đèn sáng lên. Điều này, về cốt lõi, là nền tảng của sự thâm độc. Bấm nút, đèn sáng; đèn, nút bấm. Ta thấy một cái ghế. Ta ghi nhận rằng nó có màu xám. Trí não ta sau đó sẽ vẽ ra mối liên hệ giữa màu sắc (xám) và đối tượng (cái ghế) và hình thành ý nghĩa: “Ghế thì có màu xám.”
Trí óc của ta luôn luôn ồn ào, tạo ra ngày càng nhiều các mối liên hệ để giúp ta hiểu và kiểm soát môi trường xung quanh mình. Mọi thứ liên quan đến sự trải nghiệm của ta, cả ngoại cảnh và nội tại, đều hình thành những mối liên hệ và liên kết mới trong tâm trí chúng ta. Mọi điều từ những ngôn từ trong trang sách này, cho tới phương pháp ngữ pháp mà bạn sử dụng để giải nghĩa chúng, cho tới những suy nghĩ bậy bạ mà bạn rơi vào trong khi bài viết của tôi trở nên nhàm chán và lặp đi lặp lại – mỗi một suy nghĩ, sự thôi thúc, và quan điểm đều là kết quả của hàng ngàn trên hàng ngàn mối liên kết của các tế bào thần kinh, bùng nổ trong sự tiếp hợp, đốt cháy bộ não bạn trong ngọn lửa của tri thức và sự hiểu biết.
Nhưng vẫn còn đó hai vấn đề. Đầu tiên, bộ não là không hoàn hảo. Chúng ta thường nhầm lẫn về những gì mà chúng ta nhìn hay nghe thấy. Chúng ta quên mất sự việc và diễn giải sai các sự việc khá thường xuyên.
Thứ hai là, một khi chúng ta đã tạo ra các ý nghĩa cho bản thân mình, bộ não của chúng ta được thiết kế để bám lấy cái ý nghĩa ấy. Chúng ta nghiêng về cái ý nghĩa mà tâm trí ta tạo ra, và ta không muốn bỏ qua nó. Ngay cả nếu như ta nhìn thấy những bằng chứng mà mâu thuẫn với cái ý nghĩa đã được ta tạo ra, ta vẫn thường phớt lờ nó và tiếp tục tin tưởng như cũ.
Nghệ sĩ hài Emo Philips [1]  từng nói, “Tôi từng cho rằng bộ óc con người là cơ quan vĩ đại nhất trong cơ thể tôi. Rồi tôi nhận ra ai đã nói với tôi điều này.” Điều không may là, hầu hết những điều mà ta sẽ “biết” và tin vào là sản phẩm của sự thiếu chính xác bẩm sinh và định kiến tồn tại trong óc ta. Rất nhiều hay thậm chí hầu hết các giá trị của chúng ta là sản phẩm của các sự kiện không đại diện cho phần nhiều thế giới, hay là kết quả của một quá khứ hoàn toàn sai lầm trong nhận thức.
Kết quả của toàn bộ những điều này? Hầu hết niềm tin của chúng ta đều sai. Hoặc, để chính xác hơn, tất cả niềm tin đều sai – một số chỉ ít sai hơn những cái còn lại mà thôi. Tâm trí của con người là mớ bòng bong những điều không chính xác. Và trong khi điều này có thể khiến bạn không thoải mái, đó là một ý niệm vô cùng quan trọng cần chấp nhận, như ta sẽ thấy.



[1]  Emo Philips (tên thật: Phil Soltanek; sinh ngày 7/2/1956) là một nghệ sĩ hài người Mỹ.


Hãy Cẩn Trọng Với Những Gì Bạn Tin Tưởng



Vào năm 1988, trong quá trình điều trị, nhà báo kiêm nhà hoạt động vì nữ quyền Meredith Maran [1]  đã phát hiện ra một việc vô cùng sửng sốt: cha bà đã xâm hại tình dục bà khi còn nhỏ. Đó là một cú sốc đối với bà, một ký ức đau buồn bị kìm nén mà bà đã dành hầu hết quãng đời trưởng thành của mình để lãng quên. Nhưng ở tuổi ba mươi bảy, bà đối chất với cha mình và cũng kể cho gia đình mình nghe điều gì đã xảy ra.
Thông điệp của Meredith làm cả gia đình khiếp sợ. Cha bà ngay lập tức phủ nhận mọi thứ. Một vài thành viên trong gia đình đứng về phía Meredith. Một số người khác thì ủng hộ cha bà. Cái cây gia tộc bị chẻ làm đôi. Và nỗi đau đớn gây ra bởi tình trạng mối quan hệ của Meredith với cha mình đã tồn tại từ rất lâu trước cả khi bà buộc tội ông giờ đây đã lan ra như nấm trên những nhánh cây. Nó đày đọa tất cả mọi người.
Rồi, vào năm 1996, Meredith lại tiến đến một nhận thức gây sửng sốt khác: cha của bà thực ra đã không hề xâm hại tình dục bà. (Tôi biết: ặc) Bà, với sự trợ giúp của vị chuyên gia điều trị tâm lý tốt bụng, đã thực sự sáng tạo ra cái hồi ức ấy. Chất chồng bởi cảm giác tội lỗi, bà cố gắng hòa giải với cha mình trong phần đời còn lại của ông cũng như với các thành viên khác trong gia đình bằng việc thường xuyên xin lỗi và giải thích. Nhưng sự việc dù sao cũng đã quá muộn màng. Cha bà qua đời và gia đình bà không bao giờ còn được như trước nữa.
Hóa ra Meredith không phải là trường hợp duy nhất. Như bà từng đề cập trong cuốn hồi ký của mình, My Lie: A True Story of False Memory (tạm dịch: Lời nói dối của tôi: Một câu chuyện có thật về những ký ức giả), trong suốt những năm 1980, rất nhiều phụ nữ buộc tội các thành viên nam giới trong gia đình mình vì hành vi xâm hại tình dục cuối cùng lại quay ra thừa nhận sai lầm vào nhiều năm sau. Tương tự, còn có cả một đống người trong cùng khoảng thời gian này đã bị cáo buộc lạm dụng trẻ em theo những phương thức tôn thờ ác quỷ, mặc dù trong các báo cáo điều tra tại nhiều địa phương, cảnh sát không hề tìm thấy bằng chứng của việc thực hiện những hành vi điên rồ đó.   
Tại sao con người ta lại đột nhiên sáng tạo ra những hồi ức khủng khiếp về việc lạm dụng trong gia đình và trong tôn giáo như vậy? Và tại sao tất cả những điều này lại xảy ra trong những năm 1980?
Bạn đã bao giờ chơi trò gọi điện thoại hồi còn nhỏ chưa? Bạn biết đấy, bạn nói gì đó vào tai một người và thông điệp ấy được truyền qua khoảng mười người khác, và điều mà người cuối cùng nghe được thì chả liên quan quái gì đến điều bạn nói lúc ban đầu? Về cơ bản thì những ký ức của chúng ta vận hành như vậy đấy.
Chúng ta trải nghiệm một điều gì đó. Rồi ta nhớ về chúng hơi khác đi một chút vào vài ngày sau đó, như thể chúng vừa được thì thầm vào tai ta và bị diễn giải sai đi. Rồi chúng ta lại kể cho ai đó nghe về chuyện này và phải lấp vào một vài chỗ trống với sự thêm thắt của riêng ta nhằm khiến cho mọi thứ trở nên hợp lý và rằng ta không bị thần kinh. Và rồi ta lại bắt đầu tin vào những chỗ trống được lấp đầy ấy, và vì thế mà ta cũng thuật lại y như thế vào lần kế tiếp. Ngoại trừ việc nó không hề có thật, nên ta nhớ về nó không còn đúng nữa. Và vào một đêm khuya nọ khoảng một năm sau đó khi ta đã ngà ngà say và ta kể lại câu chuyện đó, thì ta lại thêm thắt một chút nữa — được rồi, hãy thành thật nhé, chúng ta toàn bịa ra đến một phần ba câu chuyện thôi. Nhưng rồi khi ta tỉnh táo lại vào tuần kế tiếp, chúng ta không muốn tự thừa nhận rằng mình đúng là đồ điêu toa bốc phét, cho nên là ta cứ thế mà tiếp tục với cái phiên bản của câu chuyện được mở rộng và nồng nặc mùi cồn ấy. Và rồi vào năm năm sau đó nữa, cái câu chuyện tuyệt đối chính xác, thề-trước-Chúa, thề-trên-mộ-bà-mẹ-tôi, còn-thật-hơn-cả-thật nữa chỉ còn chính xác có 50 phần trăm.
Tất cả chúng ta đều làm như thế. Bạn cũng thế. Mà tôi cũng thế. Dù cho chúng ta có thật thà và tử tế đến đâu, chúng ta đều ở trong tình trạng mãi mãi làm mê muội bản thân mình và cả những người khác không vì mục đích nào khác ngoài việc trí óc của chúng ta được thiết lập để trở nên có tính hiệu quả, chứ không phải là chính xác. 
Mà không chỉ có những hồi ức của chúng ta mới thậm tệ thôi đâu, não bộ của chúng ta còn hoạt động theo một cách thiên lệch vô cùng khủng khiếp nữa kia.
Như thế nào á? Ờ, bộ não của chúng ta luôn cố gắng lý giải các sự việc hiện tại dựa trên những điều mà ta đã tin tưởng và đã từng trải nghiệm. Mọi mẩu thông tin đều được đánh giá dựa trên các giá trị và kết luận mà ta đã có sẵn. Và kết quả là, não bộ của ta luôn luôn thiên về những gì mà ta cảm thấy là đúng tại thời điểm đó. Vì thế khi mà ta có một mối quan hệ tốt đẹp với người chị em gái của ta, ta sẽ phiên dịch hầu hết các kỷ niệm của ta với cô ấy là sự khoan khoái tích cực. Nhưng khi mà mối quan hệ trở nên chua chát, thì ta lại nhìn nhận toàn bộ những ký ức ấy khác hẳn đi, làm mới lại chúng theo cái cách nhằm giải thích cho cảm giác tức giận của ta đối với cô ấy mỗi ngày. Món quà dễ thương mà cô ấy tặng cho ta vào Giáng sinh năm ngoái bây giờ được hồi tưởng lại là có vẻ trịch thượng và hợm hĩnh. Thời điểm mà cô ấy quên béng mất không mời ta ghé chơi ngôi nhà bên hồ giờ đây không còn được xem là một tội lỗi hồn nhiên nữa mà là vì tội cẩu thả không thể dung thứ.
Câu chuyện bịa đặt của Meredith về việc lạm dụng sẽ có tính hợp lý hơn khi ta hiểu được các giá trị mà bà tin vào. Một là, Meredith có một mối quan hệ vô cùng căng thẳng và gay go với người cha trong suốt cuộc đời mình. Hai là, Meredith đã gặp phải quá nhiều những thất bại trong các mối quan hệ tình cảm với đàn ông, bao gồm cả một cuộc hôn nhân đổ vỡ.
Vì thế cho nên là, dựa trên các giá trị của bà, “mối quan hệ thân mật với đàn ông” không hấp dẫn cho lắm.
Và rồi, vào đầu những năm 1980, Meredith trở thành một người đấu tranh quyết liệt vì phụ nữ và bắt đầu tiến hành các nghiên cứu về tình trạng lạm dụng trẻ em. Bà phải đối mặt với hết câu chuyện khủng khiếp này đến câu chuyện khủng khiếp khác, và bà tiếp xúc với những người là nạn nhân của các vụ loạn luân — thường là các bé gái — suốt nhiều năm trời. Bà cũng từng công bố rộng rãi một số nghiên cứu thiếu chính xác diễn ra vào thời gian đó — các nghiên cứu mà sau này thành ra đã đánh giá quá cao sự phổ biến của việc quấy rối trẻ em. (Nghiên cứu nổi tiếng nhất được công bố là có tới một phần ba số phụ nữ trưởng thành đã từng bị quấy rối tình dục khi còn nhỏ, và con số đó sau này đã được xác minh là không đúng.)
Và trên hết cả, Meredith đã yêu và bắt đầu mối quan hệ với một người phụ nữ khác, một nạn nhân của tình trạng loạn luân. Meredith phát triển một mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau và độc hại với bạn tình của mình, là một trong số những người phụ nữa mà Meredith luôn cố gắng “cứu giúp” khỏi quá khứ đau thương của họ. Người tình của bà cũng sử dụng quá khứ bất hạnh của mình như là một thứ vũ khí tội lỗi nhằm giành được sự cảm mến của Meredith (tôi sẽ nói rõ hơn về điều này và các ranh giới trong chương 8). Trong khi ấy, mối quan hệ của Meredith với cha mình còn chuyển xấu hơn nữa (ông không hề kinh ngạc khi biết bà đang ở trong một mối quan hệ đồng tính nữ), và bà tham gia các buổi điều trị tâm lý theo một tỷ lệ hơi bị quá đà. Chuyên gia điều trị cho bà, những người mà hành vi của họ được điều khiển bởi các giá trị và niềm tin của mình, thường khăng khăng rằng không chỉ đơn giản bởi vì công việc viết báo đầy căng thẳng hay những mối quan hệ tồi tệ của bà đã khiến bà thấy không hạnh phúc; mà đó hẳn phải là một điều gì đó khác, một thứ gì đó sâu xa hơn nhiều
Vào khoảng thời gian ấy, có một phương pháp trị liệu mới được gọi là liệu pháp ký ức bị kiềm nén [2]  trở nên vô cùng phổ biến. Phương pháp điều trị này liên quan tới việc chuyên gia điều trị tâm lý sẽ đưa khách hàng của mình vào trạng thái thôi miên, và bệnh nhân được khuyến khích khơi ra và tái thể nghiệm những ký ức đã lãng quên từ thời thơ ấu. Những ký ức này thường là vô hại, nhưng ý tưởng ở đây là ít nhất thì có một số ít trong đó cũng là những cú sốc.   
Vì thế mà ở đây chúng ta có Meredith tội nghiệp, đau khổ và nghiên cứu về những ca lạm dụng trẻ em và loạn luân mỗi ngày, giận dữ với cha mình, cả đời chịu đựng những mối quan hệ tồi tệ với đàn ông, và người duy nhất có vẻ hiểu được bà hay yêu thương bà lại là một người phụ nữ khác từng là nạn nhân của hành vi loạn luân gia đình. Ôi, và bà ấy nằm trên một chiếc tràng kỷ mà rơi nước mắt mỗi ngày với một vị chuyên gia tâm lý cứ yêu cầu hết lần này tới lần khác rằng bà phải nhớ ra thứ mà bà không nhớ ra nổi. Và thế là, bạn đã có được cái công thức hoàn hảo cho một ký ức được sáng tạo ra về việc lạm dụng tình dục chưa từng xảy ra rồi đấy.  
Mối ưu tiên lớn nhất trong tâm trí chúng ta khi xử lý các trải nghiệm là diễn giải chúng ra theo cái cách mà chúng sẽ được liên hệ tới những trải nghiệm trước đó, tới những cảm xúc, và niềm tin của ta. Nhưng thường thì chúng ta lao vào những tình huống trong cuộc sống mà tại đó quá khứ và hiện tại không liên quan gì tới nhau hết: trong trường hợp đó, những gì mà ta trải qua trong thời điểm ấy lướt qua mọi thứ mà ta từng chấp nhận là đúng và hợp lý về quá khứ của mình. Trong nỗ lực nhằm đạt tới được sự liên hệ, đôi khi tâm trí của chúng ta, giống như trong những trường hợp như thế này, sẽ tạo ra những ký ức sai lệch. Bằng việc liên kết các trải nghiệm trong hiện tại với cái quá khứ được tưởng tượng ra ấy, tâm trí của chúng ta cho phép chúng ta duy trì bất kỳ ý nghĩa nào mà ta đã tạo ra.   
Như đã nói đến ở trên, câu chuyện của Meredith không phải là duy nhất. Thực ra, trong những năm 1980 và đầu những năm 1990, hàng trăm người vô tội từng bị buộc tội oan vì bạo lực tình dục dưới những hoàn cảnh tương tự như thế. Rất nhiều người trong số họ phải ngồi tù vì lẽ đó.
Còn đối với những người không mấy hài lòng về cuộc đời mình, những sự diễn giải được khơi gợi như thế này, kết hợp với khả năng kích động quần chúng của giới truyền thông — thực sự đã có một cơn bệnh dịch về nạn lạm dụng tình dục và bạo hành ma quỷ diễn ra, và bạn có thể cũng là một nạn nhân trong đó — đã thúc đẩy tiềm thức của con người đánh lừa những ký ức của bản thân đôi chút và lý giải những dày vò hiện tại của họ theo cái cách cho phép họ được trở thành nạn nhân và trốn tránh trách nhiệm. Liệu pháp ký ức bị kiềm nén sau đó đóng vai trò như một cách thức để khơi ra những khát khao trong tiềm thức và đưa chúng vào một dạng thức hữu hình của ký ức. 
Cái quá trình này, và tình trạng tâm thức là hệ quả của nó, trở nên phổ biến đến nỗi mà người ta đã đặt hẳn một cái tên cho nó: hội chứng ký ức giả. Nó làm biến đổi cái cách thức mà các phiên tòa diễn ra. Hàng ngàn các chuyên gia điều trị tâm lý đã bị khởi kiện và tịch thu giấy hành nghề. Liệu pháp ký ức bị kiềm nén không được sử dụng nữa và đã bị thay thế bằng các phương pháp hiệu quả hơn. Nghiên cứu gần đây chỉ càng thêm củng cố cái bài học đầy đau đớn tại thời điểm đó: niềm tin của chúng ta là có thể uốn nắn được, và các ký ức của chúng ta là hoàn toàn không đáng tin cậy. 
Rất nhiều câu danh ngôn nói với bạn rằng “hãy tin vào bản thân,” hay “hãy tuân theo trực giác của bạn,” và toàn tập những thứ sáo rỗng nghe chừng hay ho khác.
Nhưng có lẽ câu trả lời lại nằm ở chỗ hãy tin tưởng bản thân bạn ít đi một chút. Xét cho cùng, nếu như trái tim và khối óc của chúng ta là không đáng tin cậy như thế, thì có lẽ ta cũng nên đặt ra nghi vấn nhiều hơn nữa cho các dự định và động cơ của chúng ta. Nếu như tất cả chúng ta đều sai lầm, trong toàn bộ thời gian, vậy thì chẳng phải việc tự hoài nghi bản thân và nghiêm khắc thách thức niềm tin và giả định của chúng ta là con đường hợp lý duy nhất để tiến bộ hay sao?
Điều này nghe qua có vẻ như thật đáng sợ và mang tính tự hủy hoại. Nhưng thực ra nó hoàn toàn ngược lại đấy. Nó không chỉ là một lựa chọn an toàn hơn, mà còn mang tính giải phóng nữa.

[1]  Meredith Maran (sinh năm 1951, tại New York) là nhà văn, nhà phê bình sách, và nhà báo. Bà đã phát hành mười hai cuốn sách không phải sách văn học, nhiều số trong đó nằm trong danh sách bán chạy của San Francisco Chronicle, và là thiểu thuyết gia có tác phẩm đầu tay thành công. Bà viết rất nhiều bài báo, bài luận, và đánh giá cho các tờ báo nổi tiếng của Mỹ như People, More, Good Housekeeping, Salon.com, The Chicago Tribune, The Los Angeles Times, San Francisco Chronicle, và Boston Globe.
[2] Repressed memories therapy (tạm dịch: liệu pháp ký ức bị kìm nén/ liệu phát trí nhớ phục hồi). Các ký ức bị kiềm nén là những ký ức bị khóa lại một cách vô thức bởi vì những ký ức này có liên quan tới mức căng thẳng cao độ hay những tổn thương về tinh thần. Học thuyết này nhận định rằng cho dù cá nhân đó không có khả năng nhớ lại ký ức này, thì nó vẫn tác động tới họ trong tiềm thức, và rằng những ký ức ấy có thể hòa lẫn vào trong tiềm thức của người đó. Ý tưởng về việc những ký ức bị kiềm nén che giấu sự nhận biết những tổn thương về mặt tinh thần là một phần quan trọng trong những công trình nghiên cứu ban đầu của Sigmund Freud trong lĩnh vực phân tích tâm lý. Ông về sau này đã tiếp cận một cách nhìn khác.
Sự tồn tại của ký ức bị kiềm nén là một chủ đề gây tranh cãi gay gắt trong ngành tâm lý học; dù cho một số nghiên cứu đã đưa ra kết luận rằng nó có thể xảy ra ở nhiều dạng thức tổn thương tâm lý nhưng với một tỷ lệ khá nhỏ các bệnh nhân, trong khi các nghiên cứu khác lại cho rằng nó xảy ra vô cùng phổ biến (mà nhận được sử đồng thuận của rất nhiều chuyên gia). Một số nhà tâm lý học ủng hộ học thuyết ký ức bị kiềm nén và cho rằng các ký ức bị kiềm nén có thể được khôi phục lại dựa trên quá trình điều trị, nhưng hầu hết các chuyên gia tâm lý lại cho rằng thực tế đây là một quá trình mà có thể những ký ức sai lầm sẽ được hình thành do việc pha trộn những ký ức thực với những yếu tố tác động từ bên ngoài.

Sự Nguy Hiểm Của Tính Chắc Chắn Thuần Túy


Erin ngồi đối diện với tôi trong một nhà hàng sushi và cố gắng luận giải vì sao cô nàng lại không tin vào cái chết. Đã gần ba tiếng rồi, và cô chỉ ăn đúng có bốn miếng cơm cuộn dưa chuột và uống hết một chai rượu sake. (Thực ra thì, cô ta đang uống được gần nửa chai thứ hai rồi.) Lúc này là bốn giờ chiều của một ngày thứ Ba.
Tôi nào có mời cô ta tới đây. Cô ta tìm ra tôi qua mạng Internet và phi thẳng tới đây để gặp tôi.
Lại một lần nữa.
Cô ta đã từng làm như thế này trước đây. Bạn thấy đấy, Erin đang cố thuyết phục tôi rằng mình có thể cứu người khác thoát khỏi cái chết, nhưng cô ta cũng khăng khăng rằng cô ta cần tới cả sự hỗ trợ của tôi nữa để làm điều đó. Nhưng không phải là sự hỗ trợ theo kiểu hợp tác kinh doanh đâu. Nếu như mà cô ta cần tới những lời tư vấn về PR hay gì đó, thì chuyện ấy chỉ là chuyện nhỏ. Nhưng không, còn hơn thế nữa: cô ta muốn tôi trở thành bạn trai của mình. Tại sao cơ chứ? Sau khoảng ba giờ đặt câu hỏi và một chai rưỡi rượu sake, sự việc vẫn chưa được làm sáng tỏ.
Vị hôn thê của tôi cũng có mặt cùng với chúng tôi trong nhà hàng, nhân tiện tôi báo cáo luôn. Erin cho rằng việc để cô ấy tham gia vào cuộc thảo luận là vô cùng quan trọng; Erin muốn cô ấy biết rằng cô ta “sẵn sàng chia sẻ” tôi và rằng bạn gái (mà giờ là vợ tôi) “không cần cảm thẩy bị đe dọa” bởi Erin.
Tôi gặp Erin lần đầu tiên tại một buổi hội thảo về hoàn thiện bản thân vào năm 2008. Cô ta có vẻ cũng là người tử tế. Hơi có khuynh hướng theo tư tưởng duy linh, nhưng cô ta là một luật sư và từng theo học tại một trường đại học hàng đầu, và rõ là thông minh. Và cô ta bật cười trước những câu nói đùa của tôi và nghĩ rằng tôi cũng dễ thương ra phết — nên, đương nhiên rồi, bạn biết tôi rồi đấy, tôi lên giường với cô ta.
Một tháng sau đó, cô ta rủ tôi tới sống cùng mình và chuyển tới đầu kia của đất nước. Chuyện này như là một hồi chuông cảnh tỉnh đối với tôi, và tôi cố gắng cắt đứt quan hệ với cô ta. Cô nàng phản ứng lại bằng cách nói rằng sẽ tự tử nếu như tôi không chịu ở bên cô nàng. Được rồi, cái này cũng là một báo động đỏ nốt. Tôi ngay tức khắc chặn cô nàng khỏi hòm thư điện tử và các thể loại thiết bị cá nhân khác.
Việc này chỉ cản bước chứ không ngăn cô nàng lại được.
Nhiều năm trước khi chúng tôi gặp nhau, Erin đã gặp phải một tai nạn xe hơi và suýt tí nữa thì đi đời nhà ma. Thực ra, về mặt y học cô nàng đã thực sự “chết” trong một khoảng thời gian ngắn — toàn bộ hoạt động não đã ngừng lại — nhưng cô nàng đã hồi sinh một cách thần kỳ. Khi “trở lại,” với cô nàng nói mọi thứ đã thay đổi. Cô nàng trở thành người tin vào tâm linh. Cô nàng bắt đầu có hứng thú, và bắt đầu tin vào, việc chữa trị bằng năng lượng và các thiên thần và tâm thức vũ trụ và những lá bài tarot. Cô ta cũng tin rằng mình trở thành một người chữa bệnh và đọc được ý nghĩ và nhìn thấy tương lai. Và vì bất kỳ lý do gì chăng nữa, sau khi gặp gỡ tôi, cô nàng quyết định rằng cô nàng và tôi có thể cùng nhau cứu thế giới. Để “giải thoát khỏi cái chết,” như lời cô nàng nói.
Sau khi tôi chặn cô nàng lại, cô nàng bắt đầu mở tài khoản email mới, đôi khi gửi cho tôi hàng chục cái thư trong tâm trạng giận dữ mỗi ngày. Cô ta tạo các tài khoản Facebook và Twitter giả để quấy rối tôi cũng như những người thân thiết bên tôi. Cô ta lập hẳn một trang web giống hệt như của tôi và viết vô số bài báo tố cáo rằng tôi là bạn trai cũ của cô nàng và rằng tôi đã nói dối và lừa dối cô nàng, rằng tôi đã từng hứa sẽ cưới cô nàng và rằng cô nàng và tôi thuộc về nhau. Khi tôi liên lạc với cô ta để yêu cầu cô ta gỡ bỏ trang web, cô ta nói rằng sẽ chỉ dỡ nó xuống nếu như tôi bay tới California để sống cùng cô ta. Với cô ta đấy chính là ý tưởng cho sự thỏa hiệp.
Và sau tất cả những điều này, lời biện hộ của cô ta y chang như nhau: số tôi đã định là ở bên cô nàng, rằng Chúa đã định sẵn điều ấy, rằng nửa đêm cô nàng thức dậy trước tiếng gọi của thần linh mách bảo rằng “mối quan hệ đặc biệt của chúng ta” là sự báo hiệu về một kỷ nguyên mới yên bình vĩnh cửu của trái đất. (Và vâng, cô nàng đã nói với tôi đúng y như vậy đấy.)
Khi chúng tôi ngồi lại với nhau trong cái nhà hàng sushi ấy, đã có hàng ngàn email được gửi tới cho tôi. Dù cho tôi có phản hồi hay không phản hồi lại chúng, dù tôi có trả lời vô cùng lịch sự hay đầy giận dữ, vẫn chẳng có gì thay đổi hết cả. Suy nghĩ của cô ta không bao giờ thay đổi; niềm tin của cô ta không hề dao động. Kể từ đấy đến nay đã bảy năm rồi (và chắc sẽ vẫn còn tiếp tục như vậy nữa).
Và như vậy là, trong cái nhà hàng sushi nhỏ xíu, cùng với Erin nốc rượu sake và lảm nhảm hàng giờ liền về việc cô nàng chữa khỏi bệnh sỏi thận cho con mèo nhà mình bằng bàn tay vàng ẩn chứa năng lượng như thế nào, có một điều đã nảy ra trong tâm trí tôi:
Erin là kẻ say mê việc tự cải thiện bản thân. Cô nàng đã đốt khoảng mười ngàn đô vào các cuốn sách và các cuộc hội thảo và các khóa học. Và cái phần điên khùng nhất của toàn bộ mấy thứ này chính là Erin hợp nhất tất cả các bài học mà cô nàng đã thu được vào một chữ T [1]. Cô nàng có ước mơ của mình. Cô nàng kiên trì với nó. Cô nàng hình dung ra nó và hành động và vượt qua những sự chối từ và thất bại và đứng lên và lại cố gắng tiếp. Cô nàng là một kẻ lạc quan không biết mệt. Cô nàng đánh giá bản thân mình khá cao. Ý của tôi là, cô nàng khoe khoang về việc chữa bệnh cho mèo theo đúng cái cách mà Jesus cứu Lazarus [2]  ấy — vân vân và mây mây.
Và đúng là các giá trị của cô nàng éo đỡ được nên toàn bộ những điều này chẳng có nghĩa lý gì sất. Việc cô nàng làm “đúng” mọi việc không khiến cho cô nàng luôn đúng.
Ở cô nàng có sự tin chắc mà khiến cô nàng từ chối buông tha cho cái suy nghĩ kia. Cô nàng còn từng nói rất nhiều với tôi về điều này: rằng cô nàng biết rõ sự ấn định của mình là phi lý và không lành mạnh và khiến cho cả bản thân cô nàng lẫn tôi đều không hạnh phúc. Nhưng vì một lý do nào đó mà điều này có cảm giác đúng đắn đối với cô nàng nên cô nàng không thể bỏ qua và không thể dừng lại.
Vào giữa những năm 1990, chuyên gia tâm lý Roy Baumeister [3] bắt đầu tiến hành nghiên cứu khái niệm về hành vi ác tâm. Về cơ bản, ông quan sát những người làm điều xấu và tại sao họ lại làm điều đó.
Tại thời điểm đó người ta cho rằng con người làm việc xấu bởi vì họ cảm thấy chán ghét bản thân mình — vì thế, họ có lòng tự trọng thấp. Một trong những phát hiện đầu tiên gây ngạc nhiên của Baumeister chính là điều này thường không đúng. Trên thực tế, nó thường ngược hẳn lại. Một số những tên tội phạm tàn ác nhất luôn cảm thấy khá hài lòng về bản thân chúng. Và chính bởi vì cái cảm giác hài lòng về bản thân mặc kệ thực tại xung quanh mới khiến cho chúng có lý do mà biện minh cho việc gây tổn thương và coi thường những người khác.   
Đối với những người cảm thấy có lý do chính đáng để gây ra những điều tệ hại cho người khác, họ hẳn phải cảm thấy một sự chắc chắn không gì lay chuyển nổi về tính đúng đắn, về niềm tin và sự xứng đáng của bản thân. Những kẻ phân biệt chủng tộc thực hiện những hành vi phân biệt chủng tộc bởi vì họ tin chắc vào tính thượng đẳng của nòi giống mình. Những kẻ cuồng tín đánh bom liều chết và sát hại nhiều người vô tội bởi vì họ tin chắc vào chỗ đứng của mình nơi thiên đường dành cho những kẻ tử vì đạo. Đàn ông hãm hiếp và bạo hành phụ nữ vì tin chắc rằng họ được ban cho đặc quyền đối với thân thể của người phụ nữ.  
Những con người độc ác không bao giờ tin rằng họ là kẻ độc ác; thay vì thế, họ tin rằng những người khác mới là kẻ ác.
Trong một thí nghiệm gây tranh cãi, mà giờ đây được gọi đơn giản là thí nghiệm Milgram [4] , được đặt theo tên của nhà tâm lý học Stanley Milgram, các nhà nghiên cứu đã yêu cầu những người “bình thường” trừng phạt các tình nguyện viên khác vì không tuân theo quy định. Và họ đã thực sự tiến hành trừng phạt, đôi khi hành vi trừng phạt được tăng cường tới mức độ bạo hành thân thể. Hầu hết những người thực hiện trừng phạt không hề phản đối hay yêu cầu được nghe giải thích. Mà trái lại, nhiều người trong số họ còn có vẻ thích thú với cái sự đoan chắc về tính đạo đức chính đáng của thí nghiệm.
Vấn đề ở đây là không những sự chắc chắn là không thể đạt được, mà việc theo đuổi sự chắc chắn còn phát sinh nhiều hơn (hoặc tệ hơn thế nữa) sự không chắc chắn.
Rất nhiều người có một sự tin chắc không gì lay chuyển nổi về năng lực của họ trong công việc hoặc về số tiền lương mà họ lẽ ra nên kiếm được. Nhưng sự đoan chắc này lại khiến họ thấy tồi tệ hơn, chứ không hề thấy tốt hơn một chút nào. Họ thấy người khác được thăng tiến hơn mình, và họ thấy bị coi nhẹ. Họ cảm thấy mình không được trân trọng và không được ghi nhận.
Ngay cả một hành vi đơn giản như đọc trộm tin nhắn của người yêu bạn hay hỏi thăm bạn bè về việc người khác nói gì về bạn đều xuất phát từ cảm giác thiếu tự tin và nó khơi gợi niềm khao khát về sự đoan chắc.
Bạn có thể kiểm tra tin nhắn của người yêu và không phát hiện được điều gì, nhưng mà hiếm khi chuyện lại dừng ở đấy; vì có thể sau đó bạn sẽ bắt đầu lo lắng rằng có lẽ nào anh ta lại có cái điện thoại thứ hai. Bạn có thể cảm thấy bị coi nhẹ và sẽ xông lên đòi nghe giải thích vì sao bạn lại không có tên trong đợt thăng chức, nhưng rồi điều này sẽ khiến bạn mất lòng tin vào đồng nghiệp và cứ đoán già đoán non hết thảy những điều mà họ nói với bạn (và suy nghĩ của bạn về việc họ cảm thấy gì về bạn), và do đó lại càng khiến bạn cảm thấy mình khó có thể được thăng chức hơn. Bạn có thể tiếp tục theo đuổi người ấy, nhưng trước mỗi lời từ chối tế nhị và qua mỗi một đêm cô đơn, bạn chỉ bắt đầu đặt ra càng nhiều thêm những câu hỏi về việc mình đã sai ở đâu.
Và trong những thời khắc thiếu tự tin, thất vọng nặng nề như thế, ta dễ bị rơi vào sự tự cho mình đặc quyền đầy quỷ quyệt: tin rằng chúng ta xứng đáng được phép gian lận đôi chút để đạt được mục đích của mình, rằng những người khác xứng đáng phải chịu trừng phạt, rằng ta xứng đáng được nhận những điều mình muốn, và đôi khi thông qua cả bạo lực. 
Lại một lần nữa quy luật giật lùi xuất hiện: bạn càng cố chắc chắn về một điều gì đó, bạn sẽ lại càng cảm thấy bấp bênh và thiếu an toàn hơn.
Nhưng cả điều ngược lại cũng đúng nữa: bạn càng chấp nhận sự không chắc chắn và hạn chế trong nhận thức, bạn càng cảm thấy thoải mái hơn khi nhận thức về những điều mà bạn không biết.
Sự thiếu chắc chắn loại bỏ đi những phán xét của chúng ta về người khác; nó ngăn chặn sự rập khuôn không cần thiết và những định kiến mà chúng ta cảm nhận về ai đó trên TV, trong văn phòng làm việc, hay trên đường. Sự thiếu chắc chắn cũng giải phóng ta khỏi việc phán xét chính bản thân mình. Chúng ta không biết liệu mình có được yêu quý hay không; chúng ta không biết mình hấp dẫn ra sao; chúng ta không biết liệu mình có khả năng thành công đến đâu. Cách duy nhất để đạt được những điều này là tiếp tục không biết chắc về chúng và cởi mở trong việc tìm kiếm chúng thông qua sự trải nghiệm.
Sự không chắc chắn là gốc rễ của mọi sự tiến bộ và phát triển. Như một câu ngạn ngữ cổ từng nói rằng, người mà tin rằng anh ta biết tuốt thì chẳng học thêm được điều gì. Chúng ta chẳng học được bất cứ thứ gì trừ khi ta không biết về một điều nào đó trước đã. Chúng ta càng thừa nhận rằng mình không biết, thì ta càng có nhiều cơ hội được trau dồi.
Các giá trị của chúng ta là không hoàn hảo và thiếu hoàn thiện, và việc cho rằng chúng hoàn hảo hay hoàn thiện chính là đặt ta vào một nếp suy nghĩ võ đoán đầy nguy hiểm mà sẽ sản sinh cái cảm giác tự cho mình đặc quyền và trốn tránh trách nhiệm. Cách thức duy nhất để giải quyết các vấn đề là đầu tiên cần phải thừa nhận rằng các hành động và niềm tin của ta vào lúc này là không hiệu quả và sai lầm. 
Sự cởi mở trước sai lầm phải có đó để mỗi sự thay đổi và phát triển được diễn ra.
Trước khi ta có thể nhìn vào các giá trị và sự ưu tiên của mình và thay đổi chúng cho tốt đẹp hơn, lành mạnh hơn, trước hết ta cần phải trở nên không chắc chắn về những giá trị của ta ở hiện tại. Chúng ta phải lột bỏ chúng đi trong trí óc, nhìn ra những sai lầm và thành kiến của chúng, nhìn ra chúng không phù hợp với toàn bộ phần còn lại của thế giới như thế nào, đối mặt với sự ngu dốt của ta và thừa nhận chúng, bởi vì sự dốt nát của ta còn lớn hơn cả chúng ta.

[1] Có ai còn nhớ ở chương 2 trên áo phông của Con Gấu Mèo U Uất cũng xuất hiện chữ T này không? Nó là chữ cái đầu của từ True – Thật/Đúng.
[2] Lazarus (Lazarus vùng Bethany, Thánh Lazarus hay Lazarus Bốn ngày) là một nhân vật kinh thánh. Lazarus sống ở thị trấn Bethany, gần Jerusalem. Lazarus và chị em ông là Martha và Mary đã đón tiếp chu đáo Chúa Jesus trong ngôi nhà nghèo túng của mình và tin tưởng vào sứ mệnh của Người.
Theo kinh phúc âm, khi Chúa đang ở xa phía ngoài sông Jordan, Lazarus bị ngã bệnh và qua đời. Đức Jesus biết rõ Lazarus bị bệnh nặng nhưng không đến ngay để chữa. Chúa có ý trì hoãn nhiều ngày sau khi Lazarus đã chết để cho các môn đệ biết rằng muốn hiểu thấu về ánh sáng cần phải có thời gian, là những bài học khó hiểu khi đứng trước tử thần và nấm mồ bệnh hoạn, nhưng lại dễ hiểu dưới ánh sáng phục sinh của đức Kito và sự sống lại của Lazarus. Đức Giesu đã quả quyết với Martha: “Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin Ta, ngay cả đã chết, cũng được sống lại; ai đang sống mà tin vào Ta thì sẽ không bao giờ chết (25).”
[3] Roy F. Baumeister (sinh ngày 16/5/1953) là chuyên gia tâm lý xã hội học, được biết đến với các công trình nghiên cứu về cái tôi, sự chối bỏ của xã hội, việc được thừa nhận, sự khác biệt về xu hướng tình dục và giới tính, sự kiểm soát bản thân, sự tự thân, các hành vi tự chuốc lấy thất bại, động lực, gây hấn, ý thức, và sự tự nguyện.
[4] Thí nghiệm Milgram: Năm 1961, Giáo sư Milgram cùng các cộng sự đăng quảng cáo tuyển người tham gia một cuộc thí nghiệm về “tác động của hình phạt đối với việc học” với giá 4 USD/giờ thu hút 40 người tham gia.
Người tham gia đóng vai “giáo viên” sẽ đặt câu hỏi cho “học sinh”. Cả hai ngồi ở 2 phòng khác nhau và chỉ liên lạc qua bộ đàm. “Giáo viên” lần lượt đặt câu hỏi và mỗi lần “học sinh” trả lời sai, “giáo viên” sẽ được người giám sát thí nghiệm yêu cầu nhấn nút gây giật điện để trừng phạt “học sinh” với cường độ lớn dần, tối đa là 450 volt. Dĩ nhiên, “giáo viên” không hề biết rằng chẳng có ai bị điện giật cả và “học sinh” là người trong nhóm của Milgram, giả vờ kêu la đau đớn hoặc đập vào tường van xin dừng thí nghiệm.
Trong suốt thí nghiệm, các “giáo viên” tỏ ra không thoải mái và vô cùng lo lắng. Có người liên tục quệt mồ hôi trán, người thì gắng cười to một cách gượng gạo hoặc khóc lóc hỏi thăm tình trạng của “học viên”. Tuy nhiên, không có ai tỏ ý muốn ngừng lại trước mức 135 volt. Khi đến gần mức 300 volt, một số người xin dừng thí nghiệm và trả lại tiền. Tuy nhiên khi được người giám sát đốc thúc và trấn an rằng sẽ không phải chịu trách nhiệm gì nếu có bất trắc thì họ lại tiếp tục nhấn nút bất chấp những tiếng gào thét từ phòng bên kia. Kết quả cuối cùng là chỉ có 14 trong số 40 “giáo viên” kiên quyết dừng thí nghiệm trước mức tối đa 450 volt, tức có đến 65% số người tham gia đi đến tận cùng.

Share this:

ABOUT THE AUTHOR

tôi là ai . tỉnh nguyễn

0 nhận xét:

Đăng nhận xét