Lời dẫn: Paul Graham là một trong những nhà sáng lập Y Combinator, tổ chức đầu tư mạo hiểm cho nhiều công ty khởi nghiệp lớn như Dropbox, Airbnb, Reddit… Bài viết này ra đời khi cộng đồng khởi nghiệp bắt đầu theo xu hướng bắt chước các mô hình đã thành công trước đó, thay vì tự nghĩ ra mô hình cho riêng mình.
Khi còn học trung học, tôi đã bỏ nhiều thời gian bắt chước các nhà văn kém. Trong giờ Ngữ văn, chủ yếu người ta dạy tiểu thuyết, vì vậy tôi cho rằng đó là hình thức viết văn cao nhất. Sai lầm số một.
Những câu chuyện được hâm mộ nhất đều có những con người đau khổ bằng những cách thức vô cùng phức tạp. Hầu như chả có chuyện nào vui hay hấp dẫn cả; những chuyện “được xem là” hấp dẫn đều thuộc loại cổ văn khó hiểu, như Shakespeare hay Chaucer chẳng hạn. Sai lầm số hai.
Thể loại truyền tải lý tưởng nhất lúc đó là truyện ngắn. Giờ thì tôi biết là thể loại này có chu kì sống khá ngắn ngủi, chủ yếu nổi lên nhờ vào sự phát triển của các tạp chí (ngắn nên dễ in). Mà như ta đều biết, thời đỉnh cao của xuất bản tạp chí đã qua lâu rồi. Nhưng vì độ dài thể loại này hoàn hảo để dạy trong các lớp trung học, nên chúng tôi đã đọc rất nhiều thứ này và có ấn tượng là thể loại truyện ngắn đang thịnh. Sai lầm số ba.
Và bởi vì nó quá ngắn, nên chẳng có gì thực sự xảy ra trong câu chuyện cả; có thể chỉ là một mảnh đời được ngẫu nhiên rút ngắn, và người ta xem đó là phong cách hiện đại. Sai lầm số bốn.
Kết quả là tôi đã viết rất nhiều câu chuyện mà chẳng có nội dung gì đáng chú ý cả, ngoại trừ vài nhân vật cứ suốt ngày chìm trong nỗi bất hạnh triền miên.
Hầu hết thời gian đại học, tôi chuyên về triết. Tôi rất ấn tượng với những bài báo đăng trên tạp chí triết học. Được dàn trang rất đẹp, và giọng văn thì cứ như hút hồn: lúc thì thoải mái, lúc thì tràn đầy kỹ thuật. Một anh chàng đang đi bộ trên đường và đột nhiên cái chân lý vị chân lý nảy ra trong đầu. Tôi không bao giờ hoàn toàn hiểu được những bài báo này, nhưng tôi nghĩ là sẽ quay lại nghĩ sau, khi có thời gian đọc kĩ hơn. Trong lúc đó, tôi cố gắng hết sức để bắt chước mấy bài báo này. Bây giờ tôi có thể thấy đây chẳng khác nào tự sát, bởi vì tôi chẳng biết thực sự mình đã viết cái gì. Ví dụ, không triết gia nào bác bỏ được tư tưởng một triết gia khác, bởi vì có ai nói được điều gì rõ ràng đâu mà bác với bỏ. Không cần phải nói, những điều tôi bắt chước viết hiểu được chết liền.
Ở lớp cao học, tôi vẫn cứ lãng phí thời gian bắt chước những cái sai. Lúc đó có một chương trình máy tính thời thượng được gọi là hệ thống chuyên gia (expert system), với lõi là một thứ được gọi là máy suy luận (inference engine). Tôi nhìn những thứ này hoạt động và nghĩ, cái này à, mình viết nghìn dòng code là xong. Thế mà các giáo sư danh tiếng đang viết những sách đó và bán giá mỗi quyển tới tận một năm tiền lương! Tôi thầm nghĩ, cơ hội đây rồi. Mấy thứ hay ho này lại quá dễ với mình; chắc mình thông minh lắm. Sai lầm. Hóa ra đó chỉ là trào lưu. Mấy quyển sách của các giáo sư viết ra cuối cùng chả ai xem, nội dung cũng chán. Những khách hàng duy nhất trả hàng tấn tiền cho những quyển sách đó hóa ra phần lớn là các cơ quan chính phủ, những người thường trả hàng ngàn đô cho mấy cái tua vít và bồn cầu.
Làm thế nào để tránh sao chép phải những điều sai? Chỉ sao chép những gì ta thực sự thích. Nếu hồi còn trẻ tôi biết điều này, thì tôi đã không mắc những sai lầm kể trên. Tôi không thích những truyện ngắn phải đọc trong giờ học Ngữ văn; tôi không học được gì từ các bài báo triết học; tôi không dùng phần mềm hệ thống chuyên gia. Tôi bắt chước những thứ đó đơn giản vì tôi nghĩ nó là tốt do có nhiều người ngưỡng mộ.
Thật khó để phân biệt những điều ta thích với những điều ta ấn tượng. Một mẹo nhỏ là đừng để ý cách trình bày. Khi nào tôi thấy một bức tranh treo rất ấn tượng trong một viện bảo tàng, tôi tự hỏi: mình sẽ trả bao nhiêu cho bức tranh này nếu tìm thấy nó ngoài chợ trời, dơ bẩn, không có khung, và chẳng biết ai vẽ? Nếu thử dạo quanh một bảo tàng và làm thí nghiệm này, bạn sẽ nhận được vài kết quả đáng kinh ngạc. Đừng bỏ qua điểm dữ liệu này chỉ vì nó quá khác biệt.
Một cách khác để tìm ra thứ bạn thích là xem những gì bạn thích như thú vui tội lỗi. Nhiều thứ người ta thích, đặc biệt nếu họ còn trẻ và đầy tham vọng, chủ yếu là do họ thích cái cảm giác ‘tốt cho trí tuệ’ vì ‘biết thích’ những thứ đó. 99% số người đọc Ulysses (một tác phẩm của James Joyce, ở đây bạn đọc có thể thay bằng nhiều quyển sách nổi tiếng và khó hiểu khác như “Trăm năm cô đơn” hay “1984” chẳng hạn) thấy mình trí tuệ khi nghĩ “Mình đang đọc Ulysses.” Ít nhất thì một niềm vui tội lỗi luôn đúng là niềm vui trong sáng. Bạn thường đọc gì khi không đủ sức làm người trí tuệ? Loại sách nào bạn đọc và thấy buồn vì nó chỉ còn một nửa, thay vì thấy ấn tượng và tự hào là mình đọc được một nửa cơ đấy? Đó là loại sách bạn thực sự thích.
Ngay cả khi ta tìm thấy những điều tốt thật để bắt chước, vẫn có một cái bẫy khác cần tránh. Hãy cẩn thận để sao chép đúng những cái tốt, chứ không phải những khiếm khuyết trong đó. Rất dễ bị lôi kéo vào việc bắt chước những khiếm khuyết, bởi vì nó dễ thấy, và tất nhiên cũng dễ sao chép. Ví dụ, hầu hết họa sĩ thế kỷ 18 và 19 sử dụng tông màu nâu nhạt. Họ bắt chước các hoạ sĩ lớn của thời kỳ Phục hưng. Hóa ra là các tác phẩm Phục hưng có màu nâu tối vì bụi bẩn. Cho đến nay những tác phẩm đó đã được làm sạch, để lộ ra màu sắc rực rỡ; và tất nhiên những tranh do bắt chước thì vẫn cứ nâu.
Hội họa tình cờ đã chữa cho tôi khỏi bệnh sao chép cái sai. Trong thời gian học cao học, tôi quyết định thử làm họa sĩ, và thế giới nghệ thuật rõ ràng quá tồi tệ làm tôi chẳng thể tin nỗi. Những nhà hội họa khiến tôi thấy các giáo sư triết học vẫn còn rõ ràng và dễ hiểu chán. Thế giới khó hiểu ấy khiến tôi biết ngay mình phải làm gì. Chừng mực nào đó, cái thói sao chép thiếu chọn lọc đều có trong hầu hết mọi lĩnh vực, nhưng may là tôi đã tránh được để không dính vào.
Đó là một trong những thứ có giá trị nhất mà tôi học được từ hội họa: bạn phải tự tìm ra và phân biệt được thứ nào tốt, thứ nào xấu để bắt chước theo. Đừng tin các chuyên gia. Họ sẽ nói dối với bạn đấy.
Lời bình: Không có gì xấu xa khi bắt chước người khác. Thậm chí đó là một cách hay để phát triển nhanh, thay vì tự mày mò. Tuy nhiên, bắt chước một mô hình kinh doanh (hay nói rộng ra là bất kì thứ gì) chỉ vì xã hội đề cao chứ không phải vì chính bạn hiểu và thích mô hình ấy là một cách làm tự sát. Dù là bắt chước, thì cũng cần động não – đó là thứ làm nên khác biệt giữa người bắt chước thành công và kẻ thất bại.
_Paul Graham_
“Tôi muốn sáng tạo ra cái gì đó chưa ai nghĩ ra bao giờ.”
Đó là câu nói phổ biến và ý nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu các thanh niên khởi nghiệp. Họ miệt mài theo đuổi thứ chưa từng có và ôm mộng về một giấc mơ cứu lấy thế giới. Lẽ dĩ nhiên, ước mơ là tốt, tuy nhiên liệu thực sự có một cái ý tưởng “chưa ai nghĩ ra bao giờ” hay không?
Hãy quay về Scotland thế kỷ XVIII gặp gỡ James Watt – người phát minh ra động cơ máy hơi nước. Phát minh của ông được xem là tiên phong trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Watt được ghi nhận là người “tạo” ra chiếc máy hơi nước nhưng ý tưởng đó không phải xuất hiện từ hư vô. Trong nhiều lần sữa chữa động cơ hơi nước của Thomas Newcomen, vốn được phát minh từ hơn 50 năm trước, ý nghĩ cải tiến chiếc máy đã loé lên trong đầu ông.
Bản thân Newcomen cũng không phải ngủ một đêm làm ra chiếc máy của mình. Chiếc máy của ông được cải tiến từ phát minh của Thomas Savery vào năm 1698. Bạn bắt đầu nắm được vấn đề rồi đấy! Dĩ nhiên Savery cũng không phải một bước lên mây ngay, động cơ của ông dựa trên bản thiết kế của một nhà phát mình người Pháp Denis Papin vẽ ra khoảng 20 năm trước. Papin thì không thể hình dung ra nổi cái ông cần vẽ nếu không có ý tưởng của nhà khoa học Christiaan Huyghens người Hà Lan và những người trước đó. Lịch sử của động cơ hơi nước có tuổi đời còn hơn số tuổi của James Watt lúc ông công bố phát minh của mình.
Giờ thì hãy đến với công dụng của động cơ hơi nước. Khi miệt mài cải tiến cho chiếc máy hoàn hảo hơn, James Watt không nghĩ đến làn sóng của cuộc cách mạng công nghiệp. Thậm chí, hài hước thay, ban đầu ý tưởng của ông chỉ là giúp cho chiếc máy bơm nước hiệu quả hơn trong các mỏ than (thời bấy giờ các mỏ than thường dùng máy hơi nước của Newcomen để bơm nước). Việc ứng dụng rộng rãi động cơ của Watt vào công nghiệp xe lửa và tàu thuyền (do hiệu quả cao và chi phí rẻ hơn) nằm ngoài tính toán của ông. Và tính toán “mù mờ” đó thực sự đã làm thay đổi thế giới, theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
Từ một suy nghĩ cải tiến một thứ đang có ban đầu, James Watt đã phát minh ra động cơ hơi nước hoàn thiện, đánh đấu bước ngoặt trong lịch sử loài người. Ta có thể thấy rằng, ý tưởng đó hoàn toàn không phải cái gì đó “chưa ai nghĩ ra bao giờ”. Trái lại, đó là kết tinh của hàng nghìn ý tưởng trong lịch sử hợp lại. Dĩ nhiên, không phải việc nghĩ ra cái gì hoàn toàn mới là hư cấu. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng iPod không phải máy nghe nhạc mp3 đầu tiên, Facebook không phải mạng xã hội đầu tiên và Gmail cũng chẳng phải dịch vụ thư điện tử đầu tiên. Bạn có nhớ được cái thứ đầu tiên của chúng không? Nếu không, thì hóa ra các ý tưởng “chưa ai nghĩ ra bao giờ” không ngon lành như ta tưởng.
Và lần tới, nếu muốn nghĩ ra thứ gì đó hay ho để khởi nghiệp, khoan nghĩ tới việc tạo ra một thực thể thay đổi vũ trụ đã, trước hết hãy nhìn và tìm cách cải tiến những thứ quanh mình xem sao.
Thống kê của Topica Founder Institute về các mô hình khởi nghiệp (startup) thành công ở Việt Nam mới đây cho thấy, 100% các startup này đều học hỏi và bản địa hoá từ mô hình tương tự đã thành công ở nước ngoài.
Tuy nhiên, việc đem một mô hình thế giới về áp dụng ở một môi trường khá phức tạp như Việt Nam mà tồn tại được đã là một thành công. Những ý tưởng nguyên gốc là cực kì hiếm, bởi sáng tạo ra một cái gì đó mới không phải là chuyện dễ.
Copy: Chuyện không của riêng nước nào
Dave McClure, "nhà đầu tư thiên thần" người Mỹ đã "chắp cánh" cho khoảng hơn 500 startup từng nói rằng: "Thực ra bạn có thể bắt chước đến 99 % và sáng tạo chỉ 1% thôi cũng đủ để sản phẩm đánh bật các đối thủ khác trên thị trường". Vậy nên, chuyện bắt chước ý tưởng chưa hẳn đã là chuyện xấu.
Thực tế, ngay đến cả những gã khổng lồ công nghệ như Apple hay Google cũng không thể khẳng định sản phẩm của họ không copy bất kỳ chi tiết của sản phẩm nào.
Nhìn vào phiên bản iPhone năm 2007, mọi người đều nghĩ là sự khởi đầu sáng tạo cho một loạt các đời iPhone sau này. Tuy nhiên, thực ra điểm sáng tạo nhất iPhone có được là nhờ Apple đã biết cách chắp nối những công nghệ đã có vào cùng trong một thiết bị.
Apple liệu có sao chép một số công nghệ của Palm Pilot như một số người nghi ngờ?
Hay Google Glass có thể rất sáng tạo, theo góc độ, một sản phẩm chưa từng xuất hiện trên thị trường. Nhưng trong thực tế, Google Glass làm theo đúng những gì iPhone đã làm, xây dựng trên sự cơ sở kết hợp những công nghệ đã có sẵn.
Apple không phải cái tên đầu tiên sản xuất ra một chiếc máy nghe nhạc MP3, hay Facebook cũng hoàn toàn không phải mạng xã hội đầu tiên, Google, tương tự, không phải công cụ tìm kiếm đầu tiên của thế giới,… Thế nhưng những sản phẩm của họ vẫn gây được tung hô và đón nhận bởi một nguyên lý đơn giản trở nên tốt hơn so với bản gốc còn hơn trở thành kẻ thất bại đầu tiên.
Đặc biệt, trong khoảng một thập kỷ gần đây, "bắt chước" đã trở thành một cụm từ quá quen thuộc của nền công nghệ Trung Quốc. Theo phân tích của trang công nghệ Tech in Asia, mặc dù những ngày tháng thịnh vượng của "nền kinh doanh copy" đã qua, song mô hình nổi tiếng này vẫn đang rất thịnh hành đối với các doanh nghiệp mới khởi nghiệp của Trung Quốc. Thậm chí, nhiều công ty Internet Trung Quốc còn copy lẫn nhau!
Trong cộng đồng công nghệ khởi nghiệp rất đông đúc của Trung Quốc, đi đầu không phải là lợi thế cạnh tranh đáng kể. Nếu một công ty khác cũng triển khai ý tưởng đó, dù muộn hơn vài tháng, song lại tốt hơn, họ sẽ chiến thắng.
Lấy ví dụ như trường hợp của hãng Fanfou, dịch vụ tiểu blog đầu tiên ở Trung Quốc. Họ đánh bại tất cả các đối thủ lớn trong nước và quốc tế thâm nhập thị trường Trung Quốc, nhưng chính phủ nước này lại e ngại tiềm năng của tiểu blog sẽ khiến những quan điểm trái ngược được dịp lan truyền và buộc Fanfou phải đóng cửa.
Tuy nhiên, việc kẻ tiên phong Fanfou phải ngừng hoạt động lại mở ra cơ hội cho các hãng công nghệ lớn như Sina và Tencent cơ hội xây dựng các dịch vụ tiểu blog của riêng họ bên cạnh việc đưa ra những cam kết xoa dịu quan ngại của chính phủ. Vào thời điểm các quy định đã rõ ràng hơn, Fanfou được phép mở lại dịch vụ, nhưng đã quá trễ bởi các đối thủ cạnh tranh đã tung ra những dịch vụ ưu việt hơn như Sina Weibo.
CEO Xiaomi được gọi là "Steve Jobs của Trung Quốc.
Sự vụt sáng của "ngôi sao mới nổi" Xiaomi cũng đang khiến cho nhiều hãng công nghệ trên thế giới phải dè chừng, đặc biệt là Apple bởi công ty này được xem là đã copy không ít ý tưởng của Apple. Thậm chí, CEO Xiaomi còn được gọi là "Steve Jobs của Trung Quốc".
Chỉ trong vòng 5 năm, Xiaomi đã đi từ hai bàn tay trắng vươn tới danh hiệu startup công nghệ tư nhân có giá trị lớn nhất trên thế giới.
Song, khi hầu hết các công ty khởi nghiệp đều đổ xô đi copy thì điều tất yếu là sự cạnh tranh cũng tăng lên. Do đó, hiện nay, các công ty Trung Quốc ngoài việc học hỏi các công ty công nghệ nước ngoài thành công, đã có những thay đổi lớn và sáng tạo để thích nghi thị trường.
100% startup Việt Nam cũng đi sao chép
Trong những năm gần đây, phong trào startup cũng phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam. Tuy nhiên, số lượng startup thành công ở thị trường trong nước và quốc tế vẫn chưa thực sự nhiều.
Theo ông Trần Mạnh Công, Giám đốc Topica Founder Institute, dự án hỗ trợ khởi nghiệp hàng đầu Việt Nam, hiện nay ở Việt Nam chỉ có khoảng 28 startup tạm xem là thành công, tức là thỏa mãn được một trong các tiêu chí có định giá từ 10 triệu USD hoặc doanh thu từ 2 triệu USD hoặc có từ 100 nhân viên hoặc đã gọi vốn vòng 2 hoặc đã bán được công ty với giá tốt.
Trong số 28 startup này: độ tuổi trung bình khi họ khởi nghiệp là 28,8; 78% từng làm thuê hoặc khởi nghiệp thất bại ở 2 công ty trước đây; 45% từng học hoặc làm việc tại nước ngoài trước khi về nước khởi nghiệp; thời gian trung bình dành cho startup đến lúc thành công là 5,7 năm và sẽ mất lâu hơn nữa để trở thành công ty có giá trị hàng trăm triệu USD; và 100% đều học hỏi và bản địa hoá từ mô hình tương tự đã thành công ở nước ngoài.
Như vậy, ngoài việc khởi nghiệp khá muộn, các startup Việt Nam cũng không thể tránh khỏi việc đi sao chép các mô hình thành công từ nước ngoài.
Ai dám khẳng định những hiện tượng Haivl không "copy" 9gag hay Cờ rôm + không "ăn theo" Chrome…? Hoặc các trang thương mại điện tử như Vật giá đã học theo Rakuten, Chợ điện tử theo Ebay hoặc VNG theo Tencent… Và trong quá trình học theo đó, có người đã thành công và cũng có kẻ đã phải nếm trải thất bại.
Vậy làm thế nào để sao chép mà vẫn thành công?
Theo phân tích của ông Trần Mạnh Công, dù 100% các startup của Việt Nam vẫn phải học hỏi những mô hình tương tự ở nước ngoài nhưng họ đã biến biến sự học hỏi đó thành thành công theo hai hướng: hoặc là trở thành số 1 trong lĩnh vực của mình tại Việt Nam, sau đó mở rộng sang các thị trường tương đồng trong khu vực (Appota, Topica, CleverAds, Eway...), hoặc khởi đầu và thành công tại thị trường quốc tế rồi mới quay lại Việt Nam (JoomlArt, TruePlus, MoneyLover, Beeketing...).
Nếu đánh vào thị trường Việt Nam, thường sẽ phải tìm những thứ mang hơi hướng offline, ví dụ như thương mại điện tử thì luôn luôn phải có logistic, phải ký kết với các cửa hàng, shop… Yếu tố offline là rào cản cho các startup nước ngoài, nhưng sẽ là lợi thế cho startup trong nước để có thể đi trước ký kết với các cửa hàng, như mô hình groupon của Muachung, Hotdeal; hay đào tạo, phân phối thức ăn của Foody.
Còn nếu muốn đánh vào thị trường quốc tế, các startup nên tìm một ngách hoặc tìm một thế hệ platform (nền tảng) mới, tức là tìm ra sự khác biệt để tránh phải cạnh tranh với các công ty lớn.
Thực tế, các hãng công nghệ lớn như Facebook, Twitter, Google… không bao giờ thực hiện các thương vụ mua lại các đối thủ cạnh tranh mà thường dành tiền thâu tóm nhiều nhất có thể các startup trên các lĩnh vực khác nhau. Chẳng hạn: Facebook mua Instagram, Pipe, Face.com, Oculus VR… và gặt hái được không ít thành công từ các quyết định này. Vì vậy, các startup không nên mạo hiểm đặt cược số phận mình trong trò chơi của riêng các ông lớn.
Các startup cũng không thể chờ đợi vào sự may mắn như trường hợp của Flappy Bird bởi không có nhiều người có được may mắn như vậy. Tuy nhiên, sự kiện Flappy Bird cũng là một điểm nhấn tốt cho hệ sinh thái và cộng đồng khởi nghiệp công nghệ Việt Nam để gây được sự chú ý hơn từ các nhà đầu tư mạo hiểm nước ngoài.
"Tất nhiên, startup huy động được vốn đầu tư mạo hiểm không đảm bảo chắc chắn rằng startup đó sẽ thành công. Nhưng với nguồn vốn đầu tư, các giá trị gia tăng mà nhà đầu tư mang lại sẽ là bệ phóng giúp cho startup đến gần với thành công một cách nhanh nhất và đi được xa nhất", ông Công khẳng định.
Tóm lại, ở một môi trường khởi nghiệp như Việt Nam các CEO, người sáng lập muốn thành công cần phải không ngừng học hỏi, trau dồi kinh nghiệm một cách có chọn lọc. "Những người đã thành công hoặc đang rất gần đến thành công, họ luôn trau dồi kiến thức, sẵn sàng học hỏi, làm việc gấp 5-10 bình thường và dù nghĩ lớn mơ lớn nhưng lại luôn chắt chiu từng kết quả nhỏ", ông Công cho biết thêm.
bài viết trên báo nld, ecoblade
bài viết trên báo nld, ecoblade
ABOUT THE AUTHOR
tôi là ai . tỉnh nguyễn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét